Vẻ đẹp của sông Hương mà em cảm nhận được qua bài tùy bút “ai đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Vẻ đẹp của sông Hương mà em cảm nhận được qua bài tùy bút “ai đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hướng dẫn

Đề bài: phân tích vẻ đẹp của sông Hương mà em cảm nhận được qua bài tùy bút “ai đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Mở bài Vẻ đẹp của sông Hương mà em cảm nhận được qua bài tùy bút “ai đặt tên cho dòng sông”

Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn mang dáng vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm. Khi ở thượng nguồn, nó là cô gái Digan phóng khoáng, man dại; khi ở cánh đồng Châu Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đem khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung tình, là người con gái dịu dàng của đất nước.

Thân bài Vẻ đẹp của sông Hương mà em cảm nhận được qua bài tùy bút “ai đặt tên cho dòng sông”

Cảm nhận đầu tiên là hình ảnh sông Hương được nhìn từ cội nguồn. Dưới góc nhìn của tác giả thì sông Hương có một mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn như “một bản trường ca của rừng già” với tiết tấu trầm bổng “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác và cuộn xoáy như những cơn lốc và những đáy vực bí ẩn”. Có những từ ngữ đầy chất tượng thanh, tượng hình gợi cảm: “rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy” cùng với phép so sánh tác giả đã làm nổi bật lên hình ảnh dòng sông Hương vừa mãnh liệt, vừa dữ dội, vừa ồn ào.

Đối lập với sự mạnh liệt, dữ dội ấy thì dòng sông Hương có lúc “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Khác với Nguyễn Tuân khi miêu tả dòng sông Đà như “áng tóc trữ tình” để thấy sự mềm mại dịu dàng của sông Đà thì Hoàng Phủ Ngọc Tường không tả mà chỉ nhận xét để thấy dòng sông Hương không những dịu dàng mà còn tình tứ làm mê đắm lòng người. Ông đã sử dụng phép nhân hóa biến sông Hương thành “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Rừng già đã “hun đúc” để biến người con gái của mình có “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” đồng thời rừng già cũng “chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình” để khi về đồng bằng nó mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ” và nó đã “trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.

Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ phù sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay.

Sông Hương với quá trình xuôi về thành phố. Một lần nữa, phép nhân hóa được sử dụng khi dòng sông Hương qua “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” thì trở thành “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng”. Phép nhân hóa gợi vẻ đẹp dòng sông thêm lãng mạn, tình tứ. Qua khỏi dãy núi thì sông Hương “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sau đó từ hướng nam bắc, nó chuyển hướng tây bắc và “đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về hướng đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Rồi nó vượt qua “lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”. Dòng sông chuyển động linh hoạt, rạo rực sức trẻ và đầy khát khao. Và cứ như thế dòng sông Hương tiếp tục “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo”, bỗng dòng sông trở nên “mềm như tấm lụa”. Với sự mềm mại đó dòng sông lại đi qua những dãy đồi tây nam thành phố thì nó ánh nên “những mảng phản quang nhiều màu sắc” tuyệt đẹp “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Để rồi khi đi qua “những lăng tẩm đồ sộ” thì nó trở nên đẹp một cách “trầm mặc nhất”, đẹp một vẻ đẹp “như triết lí, như cổ thi”. Biện pháp so sánh lại được sử dụng một cách độc đáo đầy sức gợi tả. Tác giả tiếp tục miêu tả mặt nước phẳng lặng trên dòng sông và rừng thông u tịch bằng sự liên tưởng tới triết học, tới cổ thi để làm nổi bật sự thâm nghiêm của không gian núi rừng. Bằng bút pháp tả, kể, bằng sự liệt kê và bằng cảm thụ tài hoa, tinh tế của mình, tác giả đã phát hiện ra dòng sông Hương vừa mạnh mẽ, vừa dịu dàng. Đặc biệt hơn, những địa danh mà nó đi qua đều chứa đựng bao chiều sâu văn hóa và cho dù sông Hương được khám phá ở góc độ nào thì nó cũng được gắn với chiều sâu văn hóa đó.

Theo dòng chảy, sông Hương tiếp tục đi vào thành phố. Sông Hương như mang tâm trạng. Khi đi qua những “biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long” thì “vui tươi hẳn lên” – đó là tâm trạng của người đi xa tìm đúng đường về, một tâm trạng náo nức, hồ hởi giữa bãi bờ thân thuộc của quê hương. Dòng sông Hương còn tạo nên một dáng vẻ kì lạ khi nó “giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên” đến Cồn Hến tạo thành “một cánh cung rất nhẹ” làm cho “dòng sông mềm mại hẳn đi” như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh từ cái cụ thể với cái trừu tượng đã tạo nên được phép so sánh mới mẻ, độc đáo. Dùng tiếng “vâng” để gợi đến sự kín đáo, ngập ngừng, ý vị, thiêng liêng, e ấp trên làn môi của người con gái đang yêu để tả cái dáng hình mềm mại như cánh cung của dòng sông Hương. Qua đó đã thể hiện được cái nhìn đa cảm, tình tứ, đem lại khoái cảm thẩm mĩ cho người đọc.

Tiếp tục với sự tài hoa, tác giả liên tiếp sử dụng phép liên tưởng để miêu tả về vị trí và lưu tốc của dòng sông Hương. Câu văn: “giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình” đã khẳng định rằng sông Hương chính là dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất của mình – đó là thành phố Huế. Tác giả đã so sánh sông Hương với sông Nê-va để thấy nếu sông Nê-va trôi nhanh quá thì dòng sông Hương ngược lại với “điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố”. Và dòng sông được liên tưởng như “điệu show tình cảm dành riêng cho Huế”. Điệu chảy “lặng lờ” ấy mang theo “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy” làm cho vẻ đẹp sông Hương càng trở nên lộng lẫy hơn.

Sông Hương không chỉ đẹp ở vẻ bề ngoài. Với cảm nhận của nhà văn thì sông Hương còn gắn bó với một chiều sâu văn hóa nữa đó. Mặt nước sông Hương là nơi sản sinh ra nền âm nhạc cổ điển Huế và nền âm nhạc của Huế từ lâu luôn gắn bó với sông Hương để làm nên chiều sâu văn hóa trên dòng sông. Nó gợi đến những dòng sông lớn trên thế giới như sông Nin, sông Hằng, sông Hoàng Hà – những dòng sông đó chính là cái nôi văn hóa từ lâu đời trên thế giới. Dòng sông Hương đã được cảm nhận ở góc độ văn hóa. Nhắc đến sông Hương là gợi nhớ đến đại thi hào Nguyễn Du, người đã “bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu” để từ đó bản đàn Kiều ra đời. Sông Hương không chỉ gắn bó với nhà thơ, gắn bó với một thời đại thành mấy thế kỉ mà còn mang giá trị văn học và thấm đẫm chiều sâu văn hóa. Dường như nó là cầu nối giữa nền văn hóa cổ điển với nền văn hóa hiện đại và tồn tại cho đến ngày nay.

Sông Hương trải qua một cuộc hành trình dài đi từ thượng nguồn, chảy vào thành phố, và cũng phải bắt đầu hành trình đi xa thành phố Huế thân yêu. Bằng kiến thức địa lí, tác giả đã miêu tả dòng chảy của sông Hương khi rời xa thành phố thì chếch theo hướng chính Bắc, nhưng trước khi đổ ra biển thì nó vòng trở lại gặp thành phố rồi mới đổ ra biển. Với cái nhìn nghệ sĩ, tác giả nhân cách hóa dòng sông như là một con người, hơn nữa như một người tình của Huế “sực nhớ lại điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối”. Tác giả đưa ra lời nhận xét “lạ với tự nhiên và rất giống con người”, nó là “nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Đẹp nhất vẫn là sự chung tình của dòng sông Hương với thành phố Huế. Để làm nổi bật điều này tác giả sử dụng những câu văn giàu hình ảnh như: “Sông Hương trong khúc ngoặt chia tay với kinh thành Huế”, “nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó”, “tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở” đẻ cho thấy một dòng chảy khác lạ của sông Hương, để thấy được mối tình e ấp trước sau như một của Kim – Kiều và tình yêu quê hương của con người nơi Châu Hóa. Mượn tình cảm riêng để bộc lộ tình cảm chung. Bởi vậy tình yêu quê hương đất nước của con người không hề chung chung to tát mà nó mềm mại, ý vị, tinh tế, thiêng liêng và sâu sắc.

Sông Hương được vẽ nên bởi nét bút tài hoa, độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ bởi vị trí khởi nguồn, màu sắc của nước, cái sự chuyển mình lạ lùng của dòng chảy… mà sông Hương còn đẹp trong lịch sử và thi ca. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bao đổi thay của thời đại thì dòng sông Hương vẫn đứng đó “là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Cuốn sử thi của sông Hương vừa mang chất anh hùng ca, vừa thấm đẫm chất trữ tình đã ghi lại lịch sử của biết bao thời đại, tiêu biểu là thời vua Hùng, thời Đại Việt, thời Tây Sơn và thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Thời nào cũng có vẻ đẹp hào hùng và thời nào cũng có đau thương. Dòng sông Hương là chứng nhân lịch sử, là tấm gương phản chiếu các thời đại và phải chăng nó chính là lịch sử?. Trong chiến tranh nó đã hiến mình làm nên chiến công và khi trở về đời thường nó lại trở thành cô gái dịu dàng, e lệ trong “tấm voan huyền ảo của tự nhiên” là “sương khói trên sông Hương”. Có một dòng thi ca về sông Hương và dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Từ “xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ” trong thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan và “trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy” – Tố Hữu. Và cho dù sông Hương đi vào trong thơ của nhà thơ nào thì nó cũng hiện lên rất đẹp, có lúc hiên ngang hùng tráng, có lúc mềm mại và đã góp phần tôn lên vẻ đẹp của cố đô Huế.

Kết thúc đoạn trích bằng một hình ảnh một nhà thơ từ Hà Nội vào, đứng ngắm dòng sông Hương và hỏi trời đất một câu hỏi mà không có câu trả lời cụ thể: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Thế nhưng chính tác giả cũng đi tìm câu trả lời để lí giải cho câu hỏi ấy bằng câu chuyện huyền thoại: “Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm, vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi”. Nhưng cũng chính tác giả lại đặt ra một câu hỏi để bày tỏ sự nghi vấn của chính mình “Có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi ấy chăng?”. Đó là câu hỏi không chắc chắn nhưng phần nào cũng giúp người đọc hiểu được tên dòng sông bắt nguồn từ một huyền thoại từ xa xưa rồi, và huyền thoại ấy sống mãi trong người dân Huế, người Việt Nam.

Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông Hương là thủy trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi chảy giữa Huế, sông Hương mềm hẳn đi như 1 tiếng ” vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như người con gái dùng dằng chia tay người yêu, thể hiện 1 nỗi niềm vương vấn với 1 chút lẳng lơ kín đáo.Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể hiện nét đẹp lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế.

Kết luận Vẻ đẹp của sông Hương mà em cảm nhận được qua bài tùy bút “ai đặt tên cho dòng sông”

Sông Hương trong tùy bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp con người: người tài nữ đánh đàn, người dân Châu Hóa, người lái thuyền xuôi ngược chung tình với quê hương, những con người đã anh dũng hi sinh, những nhà thơ, nhà văn đã viết trên dòng chảy in trời. Cũng như tình yêu của người dân với xứ Huế là tình yêu của tác giả trong quá trình khám phá, hoàn thiện chính mình.