Phân tích dấu ấn hiện đại hóa trong bài Hầu Trời và Chữ người tử tù
Hướng dẫn
Đề bài: Phân tích dấu ấn hiện đại hóa trong bài Hầu Trời và Chữ người tử tù
Bài làm:
Sinh thời Bác Hồ đã từng nói “xã hội nào thì văn nghệ ấy”. Đúng như vậy! nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng luôn gắn bó mật thiết với những biến chuyển của xã hội, của đời sống con người. Những tác phẩm văn học chân chính xưa nay đều bắt rễ sâu xa từ xã hội, làm nên một diện mạo mới cho văn học theo khuynh hướng thời đại. Vào những năm 1900 đến 1945 nhân dân ta đang gồng mình chống lại các thế lực thống trị, tàn bạo. Cùng với đó là việc học hỏi những tiến bộ văn minh của nhân loại, thì văn học cũng xoay mình theo chiều hướng đó. Bàn về điều này đã có ý kiến cho rằng, “vượt lên sự kìm hãm của các thế lực thực dân phong kiến, hòa nhập với sự lớn mạnh của dân tộc, nền văn học nước nhà đã phát triển theo hướng hiện đại hóa, với tốc độ nhanh và đạt được những thành tựu to lớn”. Minh chứng rõ nhất cho ý kiến đó cũng là dấu ấn “hiện đại hóa” cho các thể loại văn học, chính là hai tác phẩm “Hầu Trời” của Tản Đà và “Chữ Người Tử Tù” của Nguyễn Tuân.
Văn học cũng như bao môn nghệ thuật khác, luôn chịu sự chi phối của hoàn cảnh, xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến văn học hình thành nên những khuynh hướng, những chủ nghĩa khác nhau trong cách viết của giới nghệ sĩ. Vào những năm đầu thế kỷ 20 trong tình trạng nhân dân đang bị áp lực, chịu cảnh “một cổ hai tròng”, thì văn chương đã “vượt lên sự kìm hãm của các thế lực thực dân phong kiến”. Điều đó đã nhấn mạnh sức sống mạnh mẽ của văn học dân tộc, không gì có thể ngăn cản được để nó tiếp tục hòa nhập với “sức mạnh to lớn của dân tộc”. Cũng do hoàn cảnh xã hội văn học cũng phát triển theo hướng “hiện đại hóa”. Đó chính là quá trình đưa nền văn học nước nhà thoát khỏi hệ thống thi pháp trung đại và đổi mới theo hình thức văn học phương Tây, có thể hội nhập với nền văn học thế giới. Quá trình đó được thể hiện qua nhiều phương diện như quan niệm văn học, hệ thống thi pháp, chủ đề sáng tạo, nội dung, tư tưởng thể loại và ngôn ngữ. Và với sự đổi mới đó “văn học đã phát triển với tốc độ rất nhanh và đạt được những thành tựu to lớn”. Điều đó đã nói lên thành tựu đạt được và quá trình hiện đại hóa diễn ra nhanh chóng. Như vậy nhận định trên đã nhấn mạnh thành quả của quá trình hiện đại hóa văn học, từ đầu thế kỷ 20 đến cách mạng tháng 8.
Một sự việc vấn đề thay đổi có nguyên do và kết quả của nó để lại. Văn học cũng như vậy, chính do sự thúc bách của nhu cầu thời đại, do sự vận động tự thân của nền văn học dân tộc theo khuynh hướng hiện đại, do sự thức tỉnh mạnh mẽ của cái tôi cá nhân. Nên nền văn học phải phát triển theo hướng “hiện đại hóa”. Quá trình này được diễn ra và hoàn tất trong vòng 45 năm đầu thế kỷ 20 qua ba giai đoạn chính. Mỗi giai đoạn sẽ để lại dấu ấn riêng của mình. Giai đoạn thứ nhất diễn ra từ đầu thế kỷ XX đến khoảng năm 1920, là giai đoạn chuẩn bị cho công cuộc hiện đại hóa, đã có cái mới song vẫn còn nhiều cái cũ. Giai đoạn thứ hai diễn ra từ năm 1920 đến năm 1930, đây là giai đoạn quá trình hiện đại hóa đạt được những thành tựu đáng kể và tạo được dấu ấn rõ rệt. Đại diện tiêu biểu cho giai đoạn này chính là Tản Đà. Và giai đoạn ba diễn ra từ năm 1930 đến năm 1945, là giai đoạn hoàn tất quá trình hiện đại hóa văn học phát triển mạnh mẽ “một năm bằng 30 năm của người” (Vũ Ngọc Phan), với những cái tên như Thạch Lam, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng… Và trong đó không thể không nói đến Nguyễn Tuân. Mặc dù trải qua 3 giai đoạn nhưng để lại dấu ấn đậm nét chỉ thể hiện qua giai đoạn 2 và 3 với hai cái tên cùng hai tác phẩm Đại diện tiêu biểu đó là “Hầu Trời” của Tản Đà, và “Chữ Người Tử Tù” của Nguyễn Tuân.
Nhắc đến Tản Đà và Nguyễn Tuân cả hai ông đều là những tác giả tiêu biểu xuất sắc cho công cuộc hiện đại hóa văn học. Nếu như Tản Đà được đánh giá là nhà thi sĩ thứ nhất đã cho chúng ta nghe những khúc giáo đầu đặc biệt tài hoa, những khúc giáo đầu của thơ hiện kim, của thơ mới (Xuân Diệu), thì Nguyễn Tuân Lại là người đánh dấu sự hoàn tất quá trình hiện đại hóa ở thể loại truyện ngắn. Những truyện ngắn Nguyễn Tuân viết không còn là sự mới khởi đầu, mà nó đã ở mức độ cao ở sự trưởng thành thực thụ. Truyện Ông viết quả thực đã là dấu ấn hiện đại là đỉnh cao của truyện ngắn trong nền văn học dân tộc. Tiêu biểu cho ngòi bút sáng tác, của hai tác giả đó cũng là minh chứng hiện đại hóa của các thể loại văn học chính là “hầu trời” và “Chữ Người Tử Tù”.
Nếu như giai đoạn thứ nhất dấu ấn hiện tại hóa chưa được rõ ràng, thì sang giai đoạn thứ hai nó đã hoàn toàn khác và thậm chí còn đạt được những thành tựu đáng kể. Điều đó thể hiện rõ nhất qua thể loại thơ và đặc biệt là qua thơ của Tản Đà. Bằng những bài thơ có giá trị đổi mới dấu ấn hiện đại hóa đã khẳng định từ đây. Một trong số những bài thơ đó chính là bài “Hầu Trời”. Qua bài thơ “Hầu Trời” dấu ấn hiện đại hóa ở thơ đã được thể hiện rất rõ về cả nội dung, và hình thức. Trước tiên về nội dung dấu ấn hiện đại hóa thể hiện ở cái tôi độc đáo của Tản Đà bộc lộ bản lĩnh và ý thức cá nhân trước hiện thực đời sống. Đó là sự giàu tưởng tượng, duyên Hầu Trời gắn với những phút cao hứng, thăng hoa, trong sáng, niềm hạnh phúc có thể sánh với truyện gặp Tiên, Hầu Trời.
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mộng
Thật hồn! phậch pách! thật thân thế
Thật được lên tiền sướng lạ lùng”.
Tác giả dường như không nhận thức được chuyện xảy ra “đêm qua”. Đó là thực, hay là mơ, hay là tưởng tượng? Nhưng dù sao, dù thế nào thì cũng rất thăng hoa sung sướng đến lạ lùng. Đó là truyện được Hầu Trời, gặp được tiên để tìm tri âm, tri kỷ cho mình.
“Nguyên lúc canh ba nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn ngồi dậy đun nước uống
Uống xong ấm nước nằm ngâm văn”.
Trong sự thanh thản của con người dường như không còn bận bịu gì với việc trần thế, uống nước, ngâm câu thơ hay, đó đã lay động đến trời làm trời không ngủ được. Tiếng ngâm thơ mà “vang cả sông Ngân Hà”. Cái tôi bắt đầu được bộc lộ từ đây. Đó là cái tôi tài năng đấy tôi thanh thản đi tìm hạnh phúc đó là sáng tạo thơ ca cho người tri kỷ.
Dấu ấn hiện đại hóa còn được thể hiện ở việc ý thức sâu sắc về bản thân xứng danh gắn niềm kiêu hãnh cá nhân, với lòng tự trọng tự tôn dân tộc. Khi được trời gọi lên văn sĩ sẵn sàng giới thiệu về mình, về tài của mình và cả nơi. “chôn rau cắt rốn của mình”.
“Dạ bẩm lạy trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu về địa cầu
Sông Đà núi tản, nước nam Việt”.
Đó là một cái tôi đầy mạnh dạn, cá tính, luôn luôn đề cao cái tôi, cái bản ngã khác hẳn với thơ Xưa. Đoạn thơ chính là niềm tự hào về quê hương niềm tự hào đó cũng chính là điều đáng kể cho đấng tối cao là ông trời. Hơn nữa việc ý thức sâu sắc về bản thân còn là sự khẳng định tài năng và sứ mệnh của bản thân. Tự xem mình là “trích”, “Tiên”, bị đày xuống hạ giới vì tội “ngông”, nhận mình là người nhà trời, được sai xuống hạ giới thực hiện sứ mệnh cao cả là thực hành thiên lương.
Nghe xong trời ngộ một lúc lâu
Lại bảo thiên tào lấy sổ xét
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình thượng đế trông
Bấm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đầy xuống hạ giới vì tội ngông
Trời rằng không phải là trời đầy
Trời định sai con một việc này
Là việc Thiên Lương của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay”.
Cái tôi Tản Đà là một vị thần là con trời ban xuống hạ giới. Nói “Ban” chứ không nói “đầy”, bởi chính trời cũng đã nói “không phải trời đầy”. Tản Đà xuống đến trần gian là lo cho cái thiên lương của con người, làm cho “thiên lương” được Hưng thịnh dưới hạ giới.
“Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ
Dám xin không phụ trời trông mong”.
(Tiễn ông công lên chầu trời).
Cái tôi ý thức bản thân quả thực là một điều mới mẻ mà trước kia ta khó tìm thấy trong thơ ca cổ.
Dấu ấn “hiện đại hóa” trong Hầu Trời còn là khát vọng rất nghệ sĩ mà đầy kiêu hãnh, lúc buồn bã, cô đơn. Đọc bài thơ là một phương thức giải sầu, tìm kiếm tri kỷ và chỉ có trời, chứ tiên là kẻ tri âm mới thấy văn hay và tán thưởng. Khi không ngủ được vào canh ba, nằm ngâm văn tiếng ngâm đó đã vang đến trời, làm cho Trời không ngủ được đã mời Tản Đà lên. Và một khi đã nghe văn của Tản Đà thì ai ai cũng thấy làm thích thú.
“Văn dài hơi tốt ran cung mây
Trời nghe, trời cũng thấy làm hay
Tâm như nở dạ, tơ lè lưỡi Hằng Nga chúc nữ chau rồi mày