Phân tích cảm nhận về đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

Là một trong những danh nhân văn hóa thế giới, đại thi hào dân tộc, Nguyễn Du đã trở thành niềm tự hào với con người và văn học Việt Nam với kiệt tác “Truyện Kiều”. Những giá trị đạo đức, những tình cảm và hình tượng nhân vật trong tác phẩm đã được sống lại trong đời thực, là những bài học, là tấm gương của những thế hệ Việt Nam đời này qua đời khác. Và khi nói tới những vẻ đẹp chuẩn mực trong cuộc sống, chúng ta lại nhắc đến vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều. Bởi những ấn tượng của Nguyễn Du khi miêu tả chân dung hai chị em không thể không ngợi ca và thán phục. Trong chương trình Ngữ Văn 9, các bạn sẽ gặp đề bài phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. Khi gặp dạng đề này, các bạn vẫn phải tuân thủ đúng những bước làm một bài phân tích: khái quát, phân tích và đánh giá. Khi vao phần chính- phần phân tích, cần phân tích theo trình tự và bám vào các câu thơ. Sau đây sẽ là bài văn tham khảo cho các bạn. Chúc mọi người học tập tốt!

BÀI VĂN MẪU PHÂN TÍCH CẢM NHẬN VỀ ĐOẠN TRÍCH “CHỊ EM THÚY KIỀU”

Thơ ca Trung Quốc có câu: “Thi trung hữu họa”, “Thi trung hữu nhạc”. Đọc một câu thơ mà ta như đang nghe một bản đàn, khi du dương trầm bổng khi réo rắt. Một câu thơ cũng có thể là bức họa, vẽ trước mắt ta những khung cảnh và chân dung sống động. Những câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du cũng như thế. Qua kiệt tác “Truyện Kiều”, đặc biệt với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, tác giả đã tái hiện trước mắt ta những bức chân dung hoàn hảo, “thật hơn cả thật”.

Mượn cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” và bối cảnh năm Gia Tĩnh triều Minh của Trung Quốc, “Truyện Kiều” là sự phản ánh của Nguyễn Du về xã hội phong kiến Việt Nam những năm cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX. Truyện kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc đầy đau khổ tủi nhục của người con gái tài hoa tuyệt sắc Vương Thúy Kiều do bị các thế lực phong kiến bất công đày đọa. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu tác phẩm, là những bức chân dung tuyệt thế giai nhân của hai chị em, đồng thời còn dự cảm về số phận cuộc đời mỗi nhân vật.

Những câu thơ mở đầu với giọng điệu thư thái, ung dung:

  • “Đầu lòng hai ả tố nga,
  • Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
  • Mai cốt cách tuyết tinh thần,
  • Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

Ấn tượng khái quát về hai cô con gái đầu lòng nhà họ Vương : họ đều là những người con gái đẹp. Với bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp thiên nhiên để gợi vẻ đẹp con người: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”; Nguyễn Du đã khẳng định vẻ đẹp từ dáng vẻ, phẩm hạnh, tâm hồn của hai chị em. Họ có dáng vẻ thanh tao như mai, tâm hồn trắng trong như tuyết. Vẻ đẹp đạt đến độ “mười phân vẹn mười” nhưng vẫn không thể lẫn vào đâu. Ngay bốn câu đầu, ta đã thấy được tấm lòng trân trọng, ngợi ca của Nguyễn Du dành cho hai chị em.

Nhan sắc của Vân bắt đầu bằng giọng kể vừa khách quan, vừa như trò chuyện tạo mối giao cảm giữa người nói và người nghe mà cũng thật cô đúc:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”

Khác với trật tự thông thường, Nguyễn Du đi vào tả em Vân trước: một vẻ đẹp quý phái: “trang trọng khác vời”. Những câu thơ sau gợi tả vẻ đẹp chi tiết của Vân. Vẻ đẹp của Vân được so sánh với những gì đẹp nhất, trong sáng nhất của thiên nhiên đất trời. Đó là “trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết,…”. Chẳng thế mà Bác Hồ đã từng nói trong “Khán “Thiên gia thi” hữu cảm”:

  • “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ,
  • Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong;”
  • (“Thơ xưa nghiêng về yêu cảnh đẹp thiên nhiên,
  • Núi, sông, khói, hoa, tuyết, trăng, gió”)

Nàng có khuôn mặt tròn đầy, rạng rỡ như trăng rằm, điểm trên đó là đôi lông mày sắc nét, miệng cười tươi thắm như hoa, tiếng nói trong như ngọc, làn tóc óng ả hơn mây, nước da trắng mịn như tuyết. Những tính từ đi kèm: “đầy đặn, nở nang, đoan trang” đặc biệt nhấn mạnh sự cao sang quý phải, hiền dịu, phúc hậu của Vân. Vẻ đẹp ấy đạt đến tuyệt đỉnh cái đẹp nhưng vẫn tạo sự hòa hợp với xung quanh, khiến cho “mây thua, tuyết nhường”- thiên nhiên cũng phải nhún nhường trước vẻ đẹp ấy. Đó chính là dự cảm về cuộc đời bình yên, suôn sẻ của nàng sau này.

Tả Thúy Vân như thế đã đẹp, đã hay, nhưng Thúy Kiều còn hơn thế:

”Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn”

Đó là hai phẩm chất của Kiều mà Vân không có hoặc có nhưng chưa trọn vẹn: “sắc sảo” là trí tuệ, là tài, là khả năng nhận thức nhanh nhạy; “tài” là cầm kì thi họa- bốn thú vui tao nhã luôn đủ. Còn “mặn mà” là tình, là sự đắm say, không vô tâm. Ý thức nhấn mạnh này không chỉ là dụng ý mà còn là thiện cảm nhà thơ. Thiện cảm này càng tăng lên theo cấp số bằng biện pháp điệp ý. “Càng” câu trước chưa đủ mà còn phải phân biệt “So bề tài sắc lại là phần hơn”.

Tác giả vẫn sử dụng những hình ảnh tượng trưng để gợi tả vẻ đẹp của Kiều:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một tài đành họa hai”

Đôi mắt trong suốt như không màu. Một đôi mắt biết khóc, biết cười, một tuổi trẻ đang bừng thức. Ánh mắt nàng trong sáng, long lanh, thăm thẳm như làn nước mùa thu. Đôi lông mày thanh tú, mềm mại như dáng núi mùa xuân. “Làn thu thủy”, nhất là “nét xuân sơn” là những vẻ đẹp khách quan, tự nó, nằm ngoài khả năng nắm bắt của nhà thơ. Không phải là “mày ngài mắt phượng” hay “mắt lá răm, lông mày lá liễu”, tự nó mang trong mình độ dài của thời gian, độ rộng của không gian. Đó thể hiện sự sắc sảo của một tuyệt thế giai nhân, một đôi mắt tinh đời, đôi mắt tinh người. Vẻ đẹp tuyệt mĩ ấy khiến cho: hoa ghen vì thua thắm, liễu hơn vì kém xanh. Trong quan niệm phong kiến xưa, thiên nhiên là vẻ đẹp chuẩn mực, vĩnh hằng, không gì có thể vượt qua. Hoa là biểu tượng cho vẻ đẹp tuyệt mĩ, tròn đầy, rực rỡ, liễu là hình ảnh của sự sống, của thanh xuân và vĩnh cửu. Nhưng đó không còn đúng với Kiều. Kiều đẹp hơn Vân, Kiều vượt xa vẻ đẹp hoa liễu, Kiểu đẹp hơn tất cả vẻ đẹp trong đất trời. Vẻ đẹp ấy có sức lôi cuốn, mê hoặc khiến cho “nghiêng nước nghiêng thành”.

Kiều không chỉ vượt trội về nhan sắc mà nàng còn nổi bật về tài năng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.”

Cầm, kì, thi, họa Kiều đều giỏi cả nhưng có lẽ tài đàn là nổi bật nhất: khi thì thuần thục (làu), lúc thì nổi bật (ăn đứt) một tài năng thiên phú (khúc nhà) nhất là với cung bạc mệnh. Bậc quốc sắc là Thúy Kiều, tất cả cảm hứng ngợi ca hội tụ ở bốn yếu tố: sắc- tài- tính- mệnh. Duy trong văn học Việt Nam, trong cuộc đời chỉ có một Vương Thúy Kiều  tuyệt mĩ như thế. Người ta thường nói cuộc đời Kiều lắm truân chuyên vì: “Hoa ghe thua thắm, liễu hờn kém xanh” vì vốn thói đời là:

“Đã cho lấy kiếp hồng nhan

Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân”

Nhưng thực ra, tiếng đàn mới làm cho cuộc đời nàng đau đớn. Tiếng đàn ấy đi cùng nàng suốt 15 năm lưu lạc, đi hết cuộc đời. Vì thế mà hai trăm năm sau, trong “Kính gửi cụ Nguyễn Du”, Tố Hữu mới viết rằng:

“Tiếng đàn xưa đứt ngang dây

Hai trăm năm lại càng say lòng người”

Bốn câu kết trở về với trạng thái thong dong:

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

Đó là một cuộc sống phong lưu, êm đềm. Dù rất đẹp và đén tuổi lấy chồng nhưng hai chị em rất nề nếp gia phong mặc cho bên ngoài “tường đông ong bướm đi về mặc ai”.

Như vậy, Nguyễn Du đã khắc họa thành công chân dung nhân vật qua bút pháp ước lệ tượng trưng, họa vân hiển nguyệt, sử dụng những điển cố và biện pháp tu từ đặc sắc. Đặc biệt là nghệ thuật miêu tả chân dung mà dự cảm về số phận và cuộc đời nhân vật. Qua đó, vẻ đẹp hài hòa, tuyệt mĩ của hai chị em, đặc biệt là Thúy Kiều hiện lên thật chân thực và sinh động. Cùng với Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn,… Nguyễn Du đã góp thêm tiếng nói nhân đạo, tiến bộ vào nền văn học giai đoạn cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX. Đó mới biết “Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trong thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy” (Mộng Liên Đường Chủ Nhân).

Vẻ đẹp của nhân vật trong đoạn trích nói riêng và trong “Truyện Kiều” nói riêng đã và sẽ còn sức sống, hấp dẫn bạn đọc muôn đời. Để rồi, một lúc mượn lời Tố Hữu để cất lên:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”

Nguồn Internet