Đóng vai người lính trong bài thơ “Đồng chí” kể lại câu chuyện hay ngắn gọn

Văn học kháng chiến là một trong những trang văn đặc sắc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại với những áng văn, áng thơ rực lửa căm thù mà vẫn chan chứa yêu thương. Nổi bật trong các sáng tác của những nhà thơ chiến sĩ bấy giờ là tình đồng chí đồng đội, tình quân dân như cá với nước, là tình người ấm áp giữa bom đạn kẻ thù trút xuống. Những áng văn đó là minh chứng cho một thời lịch sử hào hùng của dân tộc.

Bài thơ “ Đồng chí” của Chính Hữu là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp, ca ngợi tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn, đồng thời thể hiện sức mạnh và ý chí kiên cường bất khuất của những người anh hùng áo vải, làm nên chiến thắng lừng lẫy năm châu cho dân tộc. Tưởng tượng mình là người lính năm xưa, em kể lại những kỉ niệm đáng nhớ trong hành trình đi tìm kiếm lí tưởng và độc lập dân tộc mình cùng với những người anh em đã gắn bó máu thịt một thời.

BÀI VĂN MẪU ĐÓNG VAI NGƯỜI LÍNH TRONG BÀI THƠ “ĐỒNG CHÍ” KỂ LẠI CÂU CHUYỆN

Sau chiến thắng mùa thu năm 1945, chưa được hưởng niềm vui độc lập được bấy lâu thì thực dân Pháp nổ súng xâm lược trở lại nước ta. Tôi, một người nông dân chân chất của vùng quê nghèo khó, đã nghe theo lệnh tổng động viên của chính phủ, để lại quê hương lên đường theo kháng chiến với quyết tâm sẽ không để đất nước mình rơi vào tay kẻ thù một lần nữa.

Vốn quen với tay cầm cuốc, quen với công việc đồng áng vườn tược, nay lại cầm trên tay khẩu súng, thật tình tôi chưa quen. Nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn và ý chí quyết tâm, tôi không quản ngại khó khăn nghe theo lời chỉ bảo của anh em để có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chúng tôi hành quân trên khắp các nẻo đường ra trận mạc, những đêm trăng luôn soi sáng mỗi bước đường tôi đi. Dù chưa được qua luyện tập nhưng tôi tin chắc rằng với lòng yêu nước, chúng tôi có thể vượt qua mọi gian lao khó khăn để giành cho bằng được độc lập tự do.

Năm 1947, đơn vị chúng tôi tham gia vào chiến dịch Việt Bắc cùng nhiều quân đoàn khác. Những người vốn dĩ không hề quen biết nhau nay lại trở thành những người anh em, đồng chí, cùng chia sớt ngọt bùi đắng cay. Lòng yêu nước là sợi dây kết nối chúng tôi lại với nhau và sớm trở thành những người tri kỉ không biết tự bao giờ.

Tôi quen Kiên cũng trong hoàn cảnh ấy. Anh bạn quê miền biển sớm trở thành người anh em thân thiết với tôi. Anh tâm sự với tôi về nỗi nhớ nhà, về quê hương miền duyên hải nước mặn đồng chua của anh quanh năm gian khó. Tôi kể anh nghe về làng quê nghèo nơi đất cày lên sỏi đá của tôi, cả hai đều có chung một gia cảnh nghèo khó, cùng xuất thân từ những người nông dân châm lấm tay bùn. Tôi còn nhớ mãi nụ cười hiền lành chất phác của người chiến sĩ nông dân ấy, nụ cười ánh lên trong hoàn cảnh thiếu thốn đầu thời chiến bấy giờ. Những người anh em chúng tôi từ những phương trời xa lạ, từ bốn phương trời chẳng hẹn mà bỗng chốc quen nhau. Cùng chung mục đích chiến đấu, cùng lí tưởng cách mạng soi sáng, chúng tôi sớm trở thành những người bạn tri kỉ, chia sẻ với nhau từ miếng ăn giấc ngủ, từ những nỗi nhớ gia đình, quê hương.

Thời ấy, chúng tôi phải sinh hoạt trong thiếu thốn. Quân trang, quân dụng chẳng đủ dùng, có khi hai người phải chia sẻ cho nhau một tấm chăn đơn. Rừng Trường Sơn ma thiêng nước độc, đã có lần cả đơn vị bị căn bệnh sốt rét rừng hành hạ đến vàng da, rụng tóc, cả người cứ xanh bủng đi như tàu lá chuối mà anh em chúng tôi chưa bao giờ tắt tiếng cười. Trời vào đông, cát rét căm căm như cắt vào từng làn da thớ thit, áo tôi rách vai, quần anh đầy mảnh vá, chân không có giày… Anh em cứ dựa vào nhau mà truyền cho nhau hơi ấm, nắm lấy tay nhau để tiếp thêm sức mạnh cho đồng đội vượt qua bệnh tật để cả đơn vị lại cùng nhau chiến đấu. Những buổi đêm như vậy, tôi và Kiên thường chia sẻ với nhau những nỗi nhớ nhà. Anh tâm sự  anh đã gửi bạn thân ruộng nương cày cấy, anh bỏ lại sau lưng căn nhà tranh liêu xiêu cuối làng, anh đã dứt lòng để lại mẹ già, vợ trẻ, con thơ để ra trận. Anh nhớ giếng nước, mái đình, gốc đa đầu làng, nhớ từng ngọn cỏ quê hương, nhớ mẹ già ngày đêm mong nhớ con đằng đẵng. Nói đến đây mà tôi cũng rưng rưng chợt khóc, tôi chỉ biết động viên anh, cũng là động viên chính tôi để vượt qua nỗi nhớ nhà.

Dù khó khăn gian khổ nhưng nơi chúng tôi đóng quân chưa bao giờ vơi đi tiếng cười. Nhớ khi tôi bị cơn sốt rét rừng hành hạ, trong cơn mê, tôi nghe thấy tiếng anh em đồng chí gọi nhau mang cho tôi miếng nước, tôi thấp thoáng thấy bóng Kiên đang ngồi sát cạnh tôi với đầy vẻ lo âu hiện lên trên gương mặt. Những lúc như vậy, tôi lại có thêm sức mạnh để chống chọi lại cơn bệnh đang hành hạ tôi yếu mòn đi từng ngày. Thế rồi, có lẽ chính nhờ tình cảm của anh em mà tôi đã sống sót kì diệu cho dù đã có lúc tưởng như cánh cửa sinh tử đã khép lại trước mắt tôi.

Này chú, đêm nay lại đi gác chứ? Anh em mình lại thêm được buổi ngắm trăng cuối rừng rồi đây! – Kiên hóm hỉnh nhìn tôi cười.

Giữa không gian rừng núi của Trường Sơn đại ngàn, dưới cái lạnh căm căm của mùa đông với sương muối giăng mắc khắp nơi khắp chốn, bóng anh và bóng tôi ẩn hiện dưới ánh trăng. Không ai nói với nhau một câu, xung quanh chỉ còn nghe thấy tiếng gió heo hút thổi trên ngọn cây nhưng lòng tôi vẫn thấy vô cùng ấm áp. Cuộc chiến hãy còn dài lắm và những người lính áo vải chúng tôi có lẽ phải rời xa quê hương thêm một khoảng thời gian dài nữa. Thế nhưng cứ nghĩ đến hình ảnh lá cờ đỏ thiêng liêng của Tổ quốc bay phấp phới dưới bầu trời hòa bình, nhớ đến niềm vui giải phóng của đồng bào nơi chúng tôi đi qua và đặc biệt là những người anh em đã sát cánh bên tôi, mọi gian khổ khó khan đều tan biến hết thảy. Được sống và chiến đấu cho lí tưởng cao cả của dân tộc, đời người lính chúng tôi nào mong có điều gì tuyệt vời hơn thế!

Nguồn Internet